Châu Âu-Châu Mỹ Họ

Trong tiếng Anh, từ surname là "tên" được tiếp đầu ngữ bởi từ sur của tiếng Pháp (có nghĩa là "trên"), có nguồn gốc từ tiếng Latinh super ("trên"). Trong quá khứ nó đôi khi được phát âm là sirname hay sirename (người ta cho rằng nó có nghĩa là "tên gọi của người đàn ông" hay "tên gọi của bố") theo những diễn giải tưởng tượng.

Phụ nữ thông thường đổi họ của mình sau khi kết hôn. Họ của người phụ nữ trước bất kỳ một cuộc hôn nhân nào của người đó được biết đến như là maiden name (họ thời con gái). Đây là điều bình thường đối với những người phụ nữ khi lấy họ của chồng mình, và con cái của họ cũng lấy họ của bố; mặc dù tại một số quốc gia người ta cho phép các bà vợ hay các đứa con có thể mang họ khác. Vẫn có những quốc gia còn cho phép người đàn ông lấy họ vợ. Cụ thể tại những nước nói tiếng Anh, một số người chọn họ kép sau khi kết hôn, tạo ra từ họ của vợ và chồng, nối với nhau bằng dấu gạch ngang (-).

Trong thế kỷ XIX, Francis Galton công bố các nghiên cứu thống kê về sự biến mất của một số họ. Xem Quy trình Galton-Watson để hiểu thêm về các giải thích toán học.

Các quốc gia dùng tiếng Anh

Một điều đáng ngạc nhiên là tất cả các họ có nguồn gốc Anh chỉ có một trong 4 dạng sau:

  • Nghề nghiệp (ví dụ: Smith, Baker, Archer)
  • Các đặc điểm cá nhân (ví dụ: Short, Brown, Goodman, Whitehead)
  • Các đặc điểm về địa phương hay địa lý (ví dụ: Scott, Hill, Rivers, Windsor)
  • Lấy theo tổ tiên, thông thường dựa trên tên (ví dụ Richardson, James) hay - nếu tính cả họ của những người có nguồn gốc Scotland - thị tộc (ví dụ: Macdonald).Các dạng họ này miêu tả một cách tương ứng nghề nghiệp, đặc điểm cá nhân, khu vực/nguồn gốc và tổ tiên (thông thường là tên cha) của tổ tiên xa của những người mà cách đặt họ lần đầu tiên được áp dụng. Tất nhiên, ý nghĩa nguyên thủy của tên gọi có thể ngày nay không còn ý nghĩa như thế (ví dụ: Cooper = người làm thùng). Một vấn đề còn gây tranh luận là thể loại họ thứ 5 có liên quan đến tôn giáo, mặc dù một số họ trong đó cũng là nghề nghiệp (ví dụ: Bishop).

Tại Mỹ, họ của nhiều người da đen có nguồn gốc từ sự chiếm hữu nô lệ. Rất nhiều người trong số đó có họ là do trước đây các chủ nô đã đặt họ cho tổ tiên của những người đó. Ngoài ra nhiều nô lệ sau khi được giải phóng đã tự đặt họ hay lấy họ của chủ cũ. Rất nhiều người, chẳng hạn như Muhammad AliMalcolm X, thay đổi họ của mình hơn là sống cùng với những cái họ mà chủ nô đã đặt cho tổ tiên của mình.

Truyền thống bỏ họ của mình của người phụ nữ (gọi là họ khi sinh hay họ thời con gái) sau khi kết hôn để sử dụng họ của chồng có lịch sử lâu dài. Trong những năm gần đây, nhiều phụ nữ đã giữ lại họ của mình kể cả sau khi đã lấy chồng. Tuy nhiên, trong những gia đình như vậy thì con cái đa phần vẫn lấy theo họ của người cha. Tại Mỹ, người phụ nữ thông thường trở thành Mrs. X (hay Bà X, với X là họ của người chồng) sau khi cưới, mặc dù gần đây các bà này còn được gọi như là Mrs. Y X nhiều hơn (với Y là tên và X là họ của chồng).

Rất hiếm người đàn ông ở các nước phương Tây lấy họ của vợ; điều này chủ yếu diễn ra vào thời Trung cổ, khi người đàn ông từ những gia đình nghèo khó lấy vợ là con gái duy nhất của người ở đẳng cấp cao hơn và giàu có - do vậy họ có trách nhiệm lấy họ của vợ để đổi lấy quyền thừa kế. Trong thế kỷ XVIIIXIXVương quốc Anh, các di chúc đôi khi được viết phụ thuộc vào việc người đàn ông thay đổi (hay kết hợp) họ của người đó, việc này có giá trị để họ của người trao thừa kế còn được xuất hiện. Ngày nay, một số đàn ông lấy họ của vợ là do họ tự chọn hơn là bị ép buộc. Các cặp vợ chồng có thể chọn họ khác thay vì lấy họ của vợ hay chồng.

Như là một giải pháp cho vấn đề này, nói chung các cặp vợ chồng sẽ lấy họ kép. Ví dụ: khi John Smith và Mary Jones cưới nhau, họ sẽ trở thành John Smith-Jones và Mary Smith-Jones. Tuy nhiên, nhiều cặp không thích lựa chọn này, vì nó có thể tạo ra tên gọi dài dòng (ví dụ: Heathcote-Drummond-Willoughby). Vì thế người vợ có thể lấy họ thời con gái làm tên đệm. Vì thế, khi John Smith cưới Mary Jones, cô ta sẽ trở thành Mrs. Smith, nhưng cô có thể nói về mình như là Mary Jones Smith.

Trong một số vụ việc pháp lý, đã từng có vụ kiện để họ hợp pháp của người phụ nữ được thay đổi một cách tự động sau khi kết hôn. Ngày nay điều này không phải là như vậy do người phụ nữ có thể dễ dàng thay đổi họ của mình thành họ sau khi kết hôn, mặc dù nó không còn là tự động nữa. Trong một số luật pháp, các vụ kiện quyền công dân đã từng xảy ra nhằm thay đổi luật sao cho người đàn ông có thể dễ dàng đổi họ thành họ sau khi cưới.

Các quốc gia dùng tiếng Pháp

Tại các quốc gia dùng tiếng Pháp có những sự tương đồng với những quốc gia dùng tiếng Anh trong việc sử dụng họ. Tuy nhiên, tại PhápQuébec việc thay đổi họ sau khi kết hôn không còn được thừa nhận. Những người muốn đổi họ sau khi kết hôn phải tuân theo cùng một thủ tục pháp lý như những trường hợp muốn đổi họ khác. Nói cách khác, mặc dù một người có thể sử dụng họ kết hôn nhưng "họ luật định" của người đó là không thay đổi.

Họ của người Pháp thông thường được viết hoa, giống như là thông thường được viết cho họ của người Trung Quốc (xem dưới đây).

Tại Pháp, cho đến ngày 1 tháng 1 năm 2005, trẻ em phải mang họ của người cha theo luật định. Từ ngày này trở đi, khoản 311-21 của Luật dân sự Pháp cho phép cha mẹ lấy họ cho con theo họ bố, mẹ hay kết hợp cả hai họ - nhưng không cho phép quá hai họ được kết hợp. Trong trường hợp không thỏa thuận được thì họ của người cha được sử dụng . Điều này làm cho luật pháp của Pháp phù hợp với tuyên ngôn năm 1978 của Liên minh châu Âu về việc yêu cầu các chính phủ thành viên có các biện pháp để chấp nhận quyền bình đẳng trong việc đặt họ, biện pháp này cũng được Liên hiệp quốc ủng hộ năm 1979. Các biện pháp tương tự cũng đã được chấp thuận ở Đức (năm 1976), Thụy Điển (năm 1982), Đan Mạch (năm 1983) và Tây Ban Nha (năm 1999).

Ireland

Nhiều họ ở Ireland có nguồn gốc Gaelic được biến đổi từ tên của cha hay tổ tiên, tên hiệu, hay các tên miêu tả.

Trong nhóm thứ nhất có thể đưa vào các họ như Mac Murrough, Maguire, MacDermott, MacCarthy (tất cả đều biến đổi từ tên cha) hay O'Brian, O'Neill, O'Donnell, O'Toole (tên tổ tiên).

Các họ biến đổi từ tên hiệu gồm có: Docherty (dortach - gây tổn thương), Garvery (garbh - thô), Manton (mantach - sún), Duffy (dubh - đen, giống như tóc đen), Bane (ban - trắng, giống như tóc trắng), Finn (fionn - vàng hoe, giống như tóc vàng hay tóc hung), Kennedy (cennidie - đầu thô).

Các họ miêu tả gồm có: Carr (gearr - ngắn hay nhỏ), Joyce/Seoige (từ tiếng Wales sais có nghĩa là Saxon hay English), Kearney (ceithearnach - người có đôi chân vững chắc), Brehony (mac an Brehon - con trai của người am hiểu), Ward (mac an Bard - con trai của thi sĩ).

Ngược lại với nước Anh, rất ít họ Gaelic được biến đổi từ tên gọi của một khu vực. Trong số những họ như vậy có thể nhóm lại thành một nhóm nhỏ, một số họ có thể là sự lai tạp của tên riêng hay họ Gaelic.

Trong những khu vực mà một họ nào đó là quá phổ biến, các tên gọi bổ sung được thêm vào mà đôi khi chúng tuân theo các mẫu cổ xưa. Ví dụ, tại Ireland, "Murphy" là một tên gọi cực kỳ phổ biến, các gia đình Murphy cụ thể nào đó có thể thêm tên hiệu, vì thế gia đình Denis Murphy được gọi là "những người thợ dệt" và Denis tự gọi mình là Murphy "thợ dệt". Xem thêm O'Hay

Vì những lý do như vậy, các tên hiệu (the Fada Burkes, có nghĩa là Burkes dài/cao), tên cha (John Morrissey Ned) hay họ thời con gái của mẹ (Kennedy trở thành Kennedy-Lydon) có thể trở thành các họ thông thường hay luật định. Các gia đình người Ireland của "de Courcy Ireland" đã gọi mình như thế để phân biệt họ với những người họ hàng đã chuyển tới Pháp trong thế kỷ XVII-XVIII.

Ngoài ra, những khu vực dùng Tiếng Ireland vẫn còn tuân theo các truyền thống cũ về việc đặt tên, họ theo tên, họ của cha, ông, cụ, kỵ v.v. Ví dụ: Mike Bartly Pat Reilly (có nghĩa là Mike- con trai của Bartholomew- con trai của Pat Reilly), John Michel John Oge Pat Breanach (John-con trai của Michael- con trai của John trẻ- con trai của Pat Breanach), Tom Paddy-Joe Seoige (Tom- con trai của Paddy-Joe Seoige), Mary Bartly Mike Walsh (Mary- con gái của Bartly- con trai của Mike Walsh) v.v. Thậm chí ngay những vùng dùng tiếng Anh, đặc biệt ở vùng nông thôn, đôi khi truyền thống này vẫn còn tồn tại.

Một số tiền tố trong họ của người Ireland:

  • Mac: Mac là tiếng Ireland để chỉ con trai.
  • Mac Gilla: Con trai của người đàn ông có tên đầy đủ tương tự như là Gilla Padraigh, Gilla Christ, (Mac) Gilla Bridge v.v. Việc sử dụng tương đương có thể là việc sử dụng tên thánh như St. George hay St. John ở Anh vào thế kỷ XVIII và XIX.
  • Mael: Trong thời kỳ Pagan nó được viết như là Mug, giống như trong trường hợp của Mug Nuada. Diễn giải văn chương của nó là "nô lệ của Nuada". Từ nô lệ cần phải hiểu như nghĩa của từ "người mộ đạo". Trong thời kỳ Công giáo từ Mael được sử dụng như là tên, chẳng hạn Mael Bridget, Mael Padraig, Mael Sechlainn, Mael Martain v.v. Sau này, một số tên tiến hóa thành họ (O Mael Sechlainn, Mac Mael Martain v.v).
  • Fitz: Fitz là từ trong ngôn ngữ Norman-Pháp có nguồn gốc từ tiếng Latinh filius, có nghĩa là "con trai của". Nó được sử dụng theo cách đặt theo tên của cha bởi hàng nghìn đàn ông trong thời kỳ đầu của thời đại NormanIreland (fitz Stephen, fitz Richard, fitz Robert, fitz William) và chỉ trong một số trường hợp nó mới trở thành họ thực sự, ví dụ FitzGerald. Có thể là trong giai đoạn các thế kỷ XVII và XVIII nó đã được sử dụng trong hình thức nguyên thủy của nó ở một số khu vực mà những người Cựu Anh của Ireland chiếm đa số, như là hình thức đặt theo tên cha. Các bộ tộc vùng Galway đã duy trì tập quán này rất tốt, ví dụ như John fitz John Bodkin, Michael Lynch fitz Arthur v.v, nó còn được sử dụng cho đến tận những năm đầu của thế kỷ XIX.
  • O: Nguyên thủy là 'hua', có nghĩa là cháu, hay hậu duệ của người nào đó. Ví dụ, tổ tiên của thị tộc O'Brien, Brian Boru (937-1014) đã được biết đến trong thời đại của mình như là Brian mac Lorcan mac Cennedie, có nghĩa là Brian- con trai của Lorcan- con trai của Cennedie. Vẫn chưa đến thời kỳ mà cháu chắt của tên O'Brien được sử dụng như là họ, để biểu thị nguồn gốc từ tổ tiên nổi tiếng. Có một khoảng thời gian khoảng 200 năm nó được viết như là O', nhưng trong những năm gần đây dấu nháy đơn đang bị bỏ dần đi, làm cho nó phù hợp với cách viết thời trung cổ.
  • : Nguyên thủy không được sử dụng như là một phần của họ nhưng để biểu thị các thành viên có quan hệ của một triều đại hay king-group, tất cả đều là hậu duệ của một người nào đó, ví dụ Uí Neill, Uí Censellagh. Ngày nay đôi khi nó được sử dụng thay thế cho O. Phát âm giống như (U)i.
  • : Có nguồn gốc từ Tiếng Ireland để chỉ con gái - íníon, và được biến thành Ní. Phát âm giống như ni.
  • Bean: Vợ. Phát âm giống như bân.

Tây Ban Nha và các khu vực dùng tiếng Tây Ban Nha

Trong thời trung cổ, hệ thống lấy tên cha tương tự như hệ thống sử dụng ở Iceland. Ví dụ, Álvaro - con trai của Rodrigo - có tên gọi là Álvaro Rodríguez. Con trai của ông ta - Juan - không phải là Juan Rodríguez, mà là Juan Álvarez. Theo thời gian rất nhiều tên gọi theo kiểu này trở thành họ và chúng là những họ phổ biến trong thế giới dùng tiếng Tây Ban Nha. Các nguồn khác của các họ là các đặc trưng hay thói quen cá nhân, nghề nghiệp, khu vực địa lý hay đặc trưng dân tộc: Delgado (mỏng), Moreno (sẫm); Molina (chủ cối xay), Guerrero (chiến binh); Alemán (Đức).

Tại Tây Ban Nha và một số quốc gia chịu ảnh hưởng của nền văn hóa này (các cựu thuộc địa của Tây Ban Nha), mỗi người có 2 họ (mặc dù trong một số hoàn cảnh chỉ có họ đầu tiên được dùng): họ thứ nhất là họ thứ nhất của người cha, họ thứ hai là họ thứ nhất của người mẹ. Phụ thuộc vào từng quốc gia, các họ này có thể (hoặc không) nối với nhau bằng chữ cái "y" (và) hay "de" (của). Tuy vậy, hiện nay nhiều người ở các nước Nam Mỹ chấp nhận cách đặt tên-họ theo kiểu Anh, vì thế họ có hai tên và một họ duy nhất.

Ngày nay ở Tây Ban Nha, phụ nữ khi lấy chồng vẫn giữ nguyên vẹn 2 họ của mình. Trong một số tình huống người phụ nữ đó có thể được gọi đầy đủ như sau: tên + họ cha đẻ + họ cha chồng (thông thường được liên kết bằng chữ "de"). Ví dụ, Ana García Díaz, khi lấy Juan Guerrero Macías, có thể gọi là Ana García de Guerrero, nhưng tập quán này (có từ thời trung cổ), đang bị suy tàn, và nó không có giá trị pháp lý. Các cặp vợ chồng có thể tự lựa chọn trật tự cho họ của con cái của mình: chúng hoặc giữ cách đặt họ truyền thống, như đã nói trong ví dụ (Guerrero García) là cách phần lớn mọi người đều theo, hay theo trật tự ngược lại (García Guerrero). Quyết định này phải duy trì cho tất cả mọi người con của cặp vợ chồng đó.

Bồ Đào Nha và Brasil

Cách đặt họ của người Bồ Đào Nha ngược lại với cách đặt của người Tây Ban Nha. Mỗi người có ít nhất 2 họ: họ đầu tiên là họ thứ hai của mẹ; họ thứ hai là họ thứ hai của cha. Tên gọi đầy đủ của mỗi người có thể có nhiều nhất là 6 (2 tên và 4 họ - có thể có 2 họ từ cha và 2 họ từ mẹ). Tại Brasil quy tắc là tương tự, ngoại trừ duy nhất là hiện nay rất phổ biến đối với mỗi người là chỉ có một họ: họ thứ hai của cha. Trong thời trung cổ truyền thống đặt theo tên cha là rất phổ biến – các họ tương tự như Gonçalves (con trai của Gonçalo), Fernandes (con trai của Fernando), Nunes (con trai của Nuno) v.v ngày nay được sử dụng như là họ thông thường.

Iceland

Tại Iceland, phần lớn người dân không có họ; phần tên gọi cuối cùng trong tên gọi đầy đủ của một người được đặt theo tên người cha của người đó. Ví dụ, ông Karl có con gái tên là Anna và con trai tên là Magnús, thì tên gọi đầy đủ của hai người này sẽ là Anna Karlsdóttir ("con gái của Karl") và Magnús Karlsson ("con trai của Karl").

Khu vực Scandinavia

Tại khu vực Scandinavia các họ thông thường (nhưng không nhất thiết phải có) có nguồn gốc từ tên của cha. Ví dụ: họ của người Thụy Điển Karlsson (lưu ý là có 2 chữ s), có nghĩa là "con trai của Karl" nhưng ngày nay Karlsson là một họ và cha của người mang họ này không nhất thiết phải có tên là Karl. Ở Đan MạchNa Uy các họ kết thúc với cụm từ -sen là phổ biến. Ví dụ: Karlsen có nghĩa là "con trai của Karl". Các họ này ngày nay tương tự như các họ khác ở nhiều quốc gia phương Tây khác.

Trước thế kỷ XIX đã tồn tại một hệ thống đặt tên-họ ở Scandinavia giống như ở Iceland ngày nay. Tuy nhiên, các gia đình quý tộc, về nguyên tắc đã chấp nhận họ, có thể được nói đến như là tổ tiên thực sự hay được coi là như thế (ví dụ Earl Birger Magnusson Folkunge) hay là phù hiệu của gia đình (ví dụ vua Gustav Eriksson Vasa). Trong nhiều tên gọi của các dòng họ quý tộc còn tồn tại, chẳng hạn Cederqvist ("cành tuyết tùng") hay Stiernhielm ("mũ ngôi sao"), việc diễn giải theo kiểu ngày xưa đã lỗi thời, nhưng tên gọi thì không thay đổi.

Sau này, những người dân từ tầng lớp trung lưu của Scandinavia, chủ yếu là thợ thủ công và dân thành thị, đã lấy họ tương tự như của tầng lớp quý tộc. Các họ của người Thụy Điển như là Bergman, Holmberg, Lindgren, Sandström và Åkerlund là rất hay gặp và phổ biến tới ngày nay. Điều tương tự cũng đúng với người Na Uy hay Đan Mạch.

Các họ như thế thông thường chỉ tới nơi cư ngụ của gia đình. Vì lý do này, Đan Mạch có tỷ lệ cao các tên gọi các họ được biến hóa từ các trang trại, được kèm theo bằng hậu tố -gaard – cách phát âm hiện đại là gård, nhưng ở Thụy Điển, cách phát âm thời cổ vẫn còn trong tên gọi của các họ. Ví dụ nổi tiếng nhất của loại tên gọi họ như vậy có lẽ là Kierkegaard (nghĩa nguyên thủy là: trang trại cạnh nhà thờ, cùng với kierke, thực tế bao gồm cả hai kiểu phát âm thượng cổ), nhưng nhiều họ khác cũng có thể minh họa cho điều này. Cần phải nói thêm rằng, cho dù các họ là có nguồn gốc từ nguyên quán của chủ sở hữu, quyền sở hữu họ như thế không phải là chỉ thị của mối quan hệ họ hàng với những người khác cũng mang họ đó.

Các vùng dùng tiếng Hà Lan

Rất nhiều họ của người Hà Lan và người Vlaanderen cùng bắt đầu với tiền tố như "van" (từ, của), "de" (tương tự mạo từ "the" tiếng Anh chỉ cái, con, người), "der" (của...), "van de" (từ cái...), "in het" (trong cái...). Ví dụ: "de Groot" (người vĩ đại), "van Rijn" (từ sông Rhine). Các tiền tố này thông thường không viết hoa. Đây có quy tắc chính tả mà xui khiến khi nào nên hay không nên viết hoa. Ở nước Bỉ bình thường người ta dùng chính tả của giấy chứng minh, không kể đến quy tắc này. Trong các danh mục tên-họ thì các tiền tố này bị bỏ đi để phân loại.

Nga, Ukraina, Belarus và các nước cộng hòa Xô viết cũ

Tại Nga, phần đuôi của họ phụ thuộc theo giới tính của người mang họ. Ví dụ, vợ của Ivanov có họ là Ivanova. Tương tự như vậy cho các đuôi:

  • "-ov" → "-ova" (nam: Fradkov, nữ: Fradkova);
  • "-ev" → "-eva" (nam: Lebedev, nữ: Lebedeva);
  • "-in" → "-ina" (nam: Putin, nữ: Putina)
  • "-ưi" → "-aya", "-oya", "-eya", "-iaya" (nam: Белый Belưi, nữ: Белая Belaya)

Nó là đặc trưng cho gần như tất cả những người sử dụng các ngôn ngữ Kiril.

Tên gọi đầy đủ của người Nga, nói chung, gồm tên, họ và phụ danh (một dạng thức có biến đổi của tên người cha). Ví dụ, trong tên gọi "Aleksei Ivanovich Chekhov", "Chekhov" là họ và "Ivanovich" là phụ danh; ta có thể suy ra cha của ông Aleksei này có tên là "Ivan". Điều tương tự cũng đúng đối với Ukraina, Belarus và các nước cộng hòa Xô viết cũ.

Trong giấy tờ tùy thân, hộ tịch, danh sách biên chế... tên người Nga viết theo thứ tự họ – tên – phụ danh, ví dụ Chekhov Aleksei Ivanovich; nhưng trong sách báo thì viết tên – phụ danh – họ, ví dụ Aleksei Ivanovich Chekhov. Khi xưng hô thì người ngang hàng hoặc người dưới gọi người trên bằng tên – phụ danh (ví dụ Aleksei Ivanovich, Tatyana Ivanovna). Trẻ em, bạn bè, hoặc người trên gọi người dưới bằng tên (Aleksei, Tatyana), nhưng thường là bằng tên thân mật (ví dụ Aleksei thì gọi là Aliosha, Tatyana thì gọi là Tanya).

Phụ danh cũng thay đổi theo giới nên khác nhau đối với con trai và con gái của một người. Ví dụ trong tên con trai (của ông Ivan) sẽ là Ivanovich, còn con gái của ông ta là Ivanovna.

Tại Nga, ngoài các thể loại họ như của người Anh, còn có một thể loại lớn về họ khác: các họ có liên quan tới tôn giáo. Các họ này dựa theo tên gọi của nhà thờ (ví dụ Uspensky, Kazansky), hay biệt ngữ của các sinh viên trong các tu viện hoặc thậm chí là các từ trong tiếng Latinhtiếng Hy Lạp (ví dụ Gilyarov, có nguồn gốc từ tiếng Latinh hilarius).

Ba Lan

Ba Lan và phần lớn các khu vực trước đây thuộc Liên bang Ba Lan-Litva, cách đặt tên gọi cho họ đã xuất hiện từ thời trung cổ. Nguyên thủy, nó được sử dụng để phân biệt sự khác nhau trong tên gọi chung của những người dân trong cùng một khu vực mà lại trùng tên. Tập quán này cũng giống với việc đặt họ ở Anh: nguyên thủy tên gọi của họ là các danh từ đơn giản để biểu thị nghề nghiệp (như Karczmarz - người mở quán trọ, Kowal - thợ rèn, Bednarczyk - người đóng thùng trẻ tuổi), hay hậu duệ (tên gọi theo cha đẻ như Szczepaniak - con trai của Szczepan, Józefski - con trai của Józef hay Kaźmirkiewicz - con trai của Kazimierz) hoặc các điểm đặc trưng (Nowak - người mới, Biały - người ốm yếu, Mazur người đến từ Masovia hoặc Wielgus - người to lớn).

Từ đầu thế kỷ XVI các tên gọi theo khu vực địa lý bắt đầu xuất hiện trong các họ và trở thành phổ biến, đặc biệt là trong tầng lớp quý tộc (szlachta). Nguyên thủy các họ có dạng như Jan z Kolna (có nghĩa là John của Kolno), sau đó các họ đổi dần sang dạng tính từ (Jakub Wiślicki - James của Wisła, Zbigniew Oleśnicki - Zbigniew của Oleśnica) với các hậu tố -ski, -cki và -dzki. Tên gọi của họ hình thành theo cách này về mặt ngữ pháp là các tính từ, và vì thế - giống như mọi tính từ trong tiếng Ba Lan – chúng biến đổi theo giới tính. Vì thế ta có ông Jan Kowalski và cô Maria Kowalska là anh em (và Kowalscy trong dạng số nhiều).

Vì các họ với hậu tố -ski/cki/dzki gắn liền với các nguồn gốc quý tộc, nhiều người dân từ các tầng lớp dưới dần dà cũng thay đổi họ của mình theo mô hình kể trên. Điều này sinh ra một loạt các Kowalski, Bednarski, Kaczmarski v.v. Ngày nay phần lớn những người nói tiếng Ba Lan không nhất thiết cần biết mối liên hệ giữa kết thúc –ski với nguồn gốc quý tộc, nhưng những họ như vậy dường như "nghe có vẻ hay hơn".

Một nhóm riêng các họ được cấu thành từ tên của các phù hiệu của các gia đình quý tộc. Các tên gọi này được sử dụng như là các họ độc lập hay làm phần đầu tiên của họ kép. Tương tự, sau đại chiến thế giới 1đại chiến thế giới 2 rất nhiều thành viên của tổ chức kháng chiến Ba Lan đã lấy bí danh làm phần đầu tiên trong họ của mình. Theo cách thức này mà Edward Rydz sau này trở thành nguyên soái Ba Lan Edward Śmigły-Rydz và Jan Nowak trở thành Jan Nowak-Jeziorański.

Romania

Tại România, các họ thông thường có cách sử dụng giống như của người Anh: Trẻ em thừa hưởng họ của cha đẻ và vợ lấy họ của chồng. Tuy nhiên, tồn tại những ngoại lệ và áp lực xã hội không quá mạnh để người ta phải tuân theo truyền thống này.

Nguyên từ học trong tên gọi của người Romania là hỗn tạp. Đôi khi, họ biểu thị một số đặc điểm nghề nghiệp của tổ tiên (ví dụ: Butnaru có nghĩa là "người làm thùng"), đôi khi là theo tên của cha hay mẹ - đáng chú ý là có những họ phổ biến có nguồn gốc từ tên của người mẹ, (ví dụ: Amarandei có nghĩa là "con trai hay con gái của [S]maranda").

Cũng cần lưu ý là tên/họ của người Romania không có sự phân biệt rõ ràng. Trong khi các phương tiện thông tin đại chúng nói chung sắp xếp tên-họ theo trật tự tên trước họ sau thì trong các văn bản chính thức nó được sắp xếp theo trật tự ngược lại. Người Romania thông thường tự giới thiệu theo họ.

Hungary

Xem phần Trung Quốc dưới đây.